Chè Thái Nguyên người Việt từ xưa, dù sống dưới chân núi cao, ở đồng bằng hay vùng ven biển, dù là người sang hay kẻ hèn, luôn giữ một tập tục quý: Tục Uống Trà. Thái Nguyên được biết đến như là một trong những vùng chè nổi tiếng nhất của Việt Nam. Cái tên đặc sản chè Tân Cương, một sản phẩm không còn xa lạ với tất cả người dân Việt Nam, nhưng không phải ai ai cũng được thực sự thưởng thức sản phẩm này.
Gọi là chè Thái Nguyên nhưng chất lượng chè không phải vùng nào cũng giống nhau. Đã từ lâu, giới thưởng trà truyền tụng về một địa danh thường cung cấp loại trà nổi tiếng – trà Tân Cương. Người dân Tân Cương bảo rằng cây chè có ở đất này đã từ lâu lắm rồi, nhưng mới trở thành đặc sản lừng danh khoảng trăm năm nay nhờ ông Ðội Năm (tên thật là Võ Văn Thiệt) tới vùng này khai phá mở đồn điền trồng chè và chế biến thành những gói chè Bạch Hạc đem bán khắp nơi. Ẩm khách sành điệu rất ưa dùng và tôn vinh là "Ðệ nhất danh trà", được lưu truyền từng là sản vật để tiến vua. Vườn chè cổ vẫn còn, nay đã 87 tuổi.
Mỗi gia đình ở Tân Cương đều có vườn chè và lò sấy, chủ hộ đóng rất nhiều vai: là nông dân khi chăm sóc chè, là công nhân lúc chế biến và trở thành thương nhân khi bán hàng. Thường thì việc hái chè dành cho những cô gái trẻ. Khắp đồi chè lan tỏa tiếng nói, tiếng hát, tiếng cười trong vắt của họ.
Chè là một loại cây cực kỳ khó tính và rất nhạy cảm. Ngay cả một cây xoan (sầu đông - sầu đâu) mọc ở trong vườn sẽ làm cho hương vị của những cây chè dưới gốc đã khác. Người Tân Cương bón chè bằng phân vi sinh, thuốc đuổi sâu chế biến từ cây khổ sâm. Chè phải được hái từ tinh sương đến giữa Ngọ. Dụng cụ đựng chè phải bằng sọt tre, hái khoảng nửa giờ phải mang chè vào lán. Chè đựng bằng bao ni lông và phơi nắng lâu rất dễ bị ôi chè, phẩm cấp giảm. Khi sao chè, kỵ nhất là mùi nước hoa, đặc biệt mùi dầu cù là.
Hái búp chè cũng phải đúng cách "một tôm hai lá, một cá hai chừa" để lấy được đúng phần ngon nhất của búp chè và tạo điều kiện cho lứa sau phát triển nhanh, nhiều búp hơn.
Sau khi thu hái, chè búp tươi phải được tải trong bóng râm chừng 3 giờ đồng hồ rồi mới đem chế biến thì chè sẽ cho hương vị tuyệt hảo. Đây là kinh nghiệm quý được đúc kết qua nhiều đời làm chè.
Khi chế biến chè, người nông dân đã thực sự trở thành nghệ nhân. Sự
nhạy cảm của các ngón tay mách bảo họ khi nào chè cần tăng nhiệt, khi
nào phải rút bớt củi, quá lửa chè sẽ khét còn không đủ nhiệt, chè có vị
ngái rất khó uống. Nhiều nghệ nhân cho biết chỉ cần nghe tiếng cánh chè
chuyển động trong lò sấy đã có thể biết độ nóng của lò. Dù họ không giấu
nghề, tận tình hướng dẫn từng động tác nhưng khách không dám đến sát lò
lửa chứ đừng nói đến chuyện đảo vò chè bằng tay trần trong lò nóng
bỏng. Nhiệt độ có thể lên tới 1800C nhưng người Tân Cương cha truyền con
nối bí quyết cảm nhận độ nóng qua bàn tay.
Chè búp loại này cánh săn nhỏ và cong như cái móc câu, có mầu "mốc" đặc trưng. Khi pha, thả búp chè vào ấm sành sứ cứ nghe tiếng roong roong. Ðể một dúm chè trong lòng bàn tay hà hơi vào đã thấy mùi thơm ngầy ngậy; nhai thử vài cánh chè cảm nhận được vị bùi, chát, ngọt đậm đà; nhả bã lấy ngón tay cái và ngón trỏ bóp, vặn thử thấy nước và bã xanh rờn như chè tươi, đấy là loại tốt. Có thể ướp chè búp với hoa sói, hoa ngâu, hoa nhài, hoa sen... để tạo thêm những hương thơm khác nhau tùy sở thích mỗi người nhưng việc ướp cũng phải tuân thủ những quy định công phu, nếu không có kinh nghiệm sẽ làm giảm hương vị tự nhiên của chè.
Những nghệ nhân nơi đây cho biết, chè ngon trong năm là chè thu hoạch vụ Xuân, mùi hương cốm chè Tân Cương không nơi nào học được. Để có được một ký chè Tân Cương thứ thiệt quả là không dễ. Ai đã thử qua trà shan tuyết Suối Giàng, shan tuyết Cao Bồ, Hà Giang, thậm chí sang Hàng Châu uống thử trà Long Tỉnh, trà Ninh Ba, Ô Long - Đài Loan cũng phải công nhận rằng, trà Tân Cương quả thực “danh bất hư truyền”.
Gọi là chè Thái Nguyên nhưng chất lượng chè không phải vùng nào cũng giống nhau. Đã từ lâu, giới thưởng trà truyền tụng về một địa danh thường cung cấp loại trà nổi tiếng – trà Tân Cương. Người dân Tân Cương bảo rằng cây chè có ở đất này đã từ lâu lắm rồi, nhưng mới trở thành đặc sản lừng danh khoảng trăm năm nay nhờ ông Ðội Năm (tên thật là Võ Văn Thiệt) tới vùng này khai phá mở đồn điền trồng chè và chế biến thành những gói chè Bạch Hạc đem bán khắp nơi. Ẩm khách sành điệu rất ưa dùng và tôn vinh là "Ðệ nhất danh trà", được lưu truyền từng là sản vật để tiến vua. Vườn chè cổ vẫn còn, nay đã 87 tuổi.
Mỗi gia đình ở Tân Cương đều có vườn chè và lò sấy, chủ hộ đóng rất nhiều vai: là nông dân khi chăm sóc chè, là công nhân lúc chế biến và trở thành thương nhân khi bán hàng. Thường thì việc hái chè dành cho những cô gái trẻ. Khắp đồi chè lan tỏa tiếng nói, tiếng hát, tiếng cười trong vắt của họ.
Chè là một loại cây cực kỳ khó tính và rất nhạy cảm. Ngay cả một cây xoan (sầu đông - sầu đâu) mọc ở trong vườn sẽ làm cho hương vị của những cây chè dưới gốc đã khác. Người Tân Cương bón chè bằng phân vi sinh, thuốc đuổi sâu chế biến từ cây khổ sâm. Chè phải được hái từ tinh sương đến giữa Ngọ. Dụng cụ đựng chè phải bằng sọt tre, hái khoảng nửa giờ phải mang chè vào lán. Chè đựng bằng bao ni lông và phơi nắng lâu rất dễ bị ôi chè, phẩm cấp giảm. Khi sao chè, kỵ nhất là mùi nước hoa, đặc biệt mùi dầu cù là.
Hái búp chè cũng phải đúng cách "một tôm hai lá, một cá hai chừa" để lấy được đúng phần ngon nhất của búp chè và tạo điều kiện cho lứa sau phát triển nhanh, nhiều búp hơn.
Sau khi thu hái, chè búp tươi phải được tải trong bóng râm chừng 3 giờ đồng hồ rồi mới đem chế biến thì chè sẽ cho hương vị tuyệt hảo. Đây là kinh nghiệm quý được đúc kết qua nhiều đời làm chè.
Búp chè hái về phải chế biến ngay trong ngày theo đúng quy trình kỹ
thuật truyền thống: Sao, vò, rồi lại sao mà phải làm liên tục, gọi là
sao suốt. Qua bàn tay đảo búp chè cảm nhận độ nóng rồi điều chỉnh lửa
thích hợp trong quá trình sao là bí quyết riêng của mỗi nhà sản xuất chè
để được chè ngon; rồi sàng sảy phân loại chè cám, chè ban, chè búp; lấy
hương... rất nhọc nhằn, công phu. Trước đây sao chè bằng chảo gang và
củi, lấy hương bằng chảo đồng cho sản phẩm chè ngon nhất nhưng năng suất
chế biến thấp, sao giỏi chỉ được 5kg/ngày, một lò sao lăn được 2kg/giờ.
Nay, việc sao vò chè đã có máy móc hiện đại, rút ngắn thời gian chế
biến. Nhưng, dù theo cách nào, chè ngon hay dở đều phụ thuộc phần lớn
vào việc điều chỉnh lửa.
Chè búp loại này cánh săn nhỏ và cong như cái móc câu, có mầu "mốc" đặc trưng. Khi pha, thả búp chè vào ấm sành sứ cứ nghe tiếng roong roong. Ðể một dúm chè trong lòng bàn tay hà hơi vào đã thấy mùi thơm ngầy ngậy; nhai thử vài cánh chè cảm nhận được vị bùi, chát, ngọt đậm đà; nhả bã lấy ngón tay cái và ngón trỏ bóp, vặn thử thấy nước và bã xanh rờn như chè tươi, đấy là loại tốt. Có thể ướp chè búp với hoa sói, hoa ngâu, hoa nhài, hoa sen... để tạo thêm những hương thơm khác nhau tùy sở thích mỗi người nhưng việc ướp cũng phải tuân thủ những quy định công phu, nếu không có kinh nghiệm sẽ làm giảm hương vị tự nhiên của chè.
Những nghệ nhân nơi đây cho biết, chè ngon trong năm là chè thu hoạch vụ Xuân, mùi hương cốm chè Tân Cương không nơi nào học được. Để có được một ký chè Tân Cương thứ thiệt quả là không dễ. Ai đã thử qua trà shan tuyết Suối Giàng, shan tuyết Cao Bồ, Hà Giang, thậm chí sang Hàng Châu uống thử trà Long Tỉnh, trà Ninh Ba, Ô Long - Đài Loan cũng phải công nhận rằng, trà Tân Cương quả thực “danh bất hư truyền”.
Post a Comment